Rời
quê hương Việt Nam từ năm 14 tuổi, Nguyễn Thiện Đạo tới Paris. Năng khiếu và niếm
say mê đã giúp ông đã thi đỗ vào Nhạc viện Quốc gia Paris, nhanh chóng trở
thành hiện tượng của trường và trở thành một trong năm học trò xuất sắc nhất của
thiên tài âm nhạc Oliver Messiaen, một nhà soạn nhạc lớn nhất thế giới thế kỳ
XX. Và rồi, trân trọng tài năng của học trò, Oliver Messiaen đã ghi nhận “Nguyễn
Thiện Đạo là người nhạc sĩ lớn nhất cuối thế kỷ XX”. Ông là một hiện tượng trong nghệ
thuật âm nhạc hàn lâm thế giới với tài năng kết hợp tinh hoa âm nhạc Đông
Tây, Nguyễn Thiện Đạo đã chỉ huy nhiều dàn
nhạc hợp xướng hoành tráng khởi lên giữa trung tâm châu Âu, những thanh âm dân tộc thấm đẫm “khí thiêng hào sảng của
sông núi Việt” kỳ ảo, tinh tế, như những lớp sóng vang vọng, trầm buồn, hào
hùng,… và ông đã là “một chiếc cầu đặc biệt nối liền âm nhạc Việt Nam tới những
bến bờ xa lắc để thế giới từ lạ lẫm đã trở thành ngưỡng mộ”.
Đằng
sau những danh hiệu “Giáo sư- Nhạc sĩ”, “tài năng âm nhạc xuất chúng”, và những giải thưởng quốc tế “André Caplet” của Viện Hàn lâm Mỹ thuật Pháp,
huân chương “Chevalier des Art et des Lettres”, ….danh hiệu “Vinh danh đất Việt”,
“Huân chương kháng chiến hạng Ba” do nhà nước Việt Nam phong tặng; sự vinh danh
trong các từ điển Danh nhân lớn nhất thế giới của Pháp “Le petit Larousse” và “Le Petit
Robert”; “Who is who” của Mỹ, “Who is who in music” của Anh; là một Nguyễn Thiện Đạo bay bổng với tình yêu quê hương lai láng, tràn ngập sự tự hào và ngưỡng mộ
tinh thần hào sảng dân tộc. Mê mị với âm nhạc dân tộc trong tâm bào, nhà soạn
nhạc với mong muốn “ được đóng góp tốt nhất cho nền âm nhạc bác học Việt Nam,
muốn cùng các nhạc sĩ Việt Nam tạo ra một dòng nhạc Việt Nam xứng tầm trên thế
giới”….
Năm
mươi năm gắn bó với âm nhạc, sáng tác hơn 90 tác phẩm, nhiều tác phẩm được coi
là “quan trọng không thể thiếu được” khi nói đến những tác phẩm âm nhạc thế giới,
Nguyễn Thiện Đạo vẫn trong trạng thái như mê sảng, phiêu diêu nơi cảm hứng sáng
tác, nơi khởi nguồn tác phẩm mà ông đang theo đuổi mà hầu như âm nhạc của ông
chỉ mới diễn tả được phần nào,….
Ông
sang Pháp từ năm 14 tuổi, thi đỗ vào Nhạc viện Quốc gia Paris, và ngay từ năm
thứ nhất ông đã trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị - sinh viên năm nhất nhận
giải thưởng của Nhạc viện với tác phẩm khí nhạc “Thành đồng tổ quốc” (thơ Tố Hữu),
phải chăng thành công này đã giúp ông quyết định theo con đường sáng tác bắt
nguồn từ truyền thống và bản sắc dân tộc?
Từ tấm bé tôi đã say mê con đường nghệ thuật. Trong đầu tôi
luôn vang vẳng dòng nhạc phức điệu. Thời thơ ấu, khi được về
quê, nằm trên con đê làng nhìn mây bay,nghe tiếng sáo diều quyện chim hót, tiếng
dòng sông Đáy nhẹ reo, thả hồn vào thiên nhiên hầu như vô tận, trong tôi một
dòng nhạc phức điệu diệu kỳ mê hoặc. Cho đến hôm nay, dòng nhạc phức điệu này vẫn
đeo đuổi tôi trong những giấc mơ hồng, nhưng sáng dậy không thể nào viết lại
như đã nghe trong giấc mơ. Ôi thật đúng ! điệu nhạc trong tâm bào là điệu nhạc
tuyệt mỹ nhất...
Âm nhạc truyền thống và dân ca luôn cháy bỏng trong tâm bào tôi.
Cho tới nay, tôi rung động khi nghe những bản nhạc bác học
Tây Âu, nhưng khi nghe một điệu ngâm thơ, một bản nhạc cổ truyền thì tinh anh
tôi như bay trên thể phách, hồn tôi thiêm thiếp lâng lâng nơi cõi
chết... Giải thưởng nhất môn soạn nhạc Nhạc viện Paris chỉ là một ngọn gió
nhẹ thổi trong khoảng trống cõi lòng tôi. Lão Tử nói "khoảng trống luôn sẽ
được lắp đầy"...
Tiếp
thu nền giáo dục hiện đại Pháp, ông lại sáng tác những tác phẩm âm nhạc hàn lâm thấm đẫm văn hóa - nghệ thuật truyền thống
dân tộc, ông đã kết hợp giữa tính hiện đại và truyền thống như thế nào trong những
tác phẩm của mình?
Cố gắng học hỏi thấu đáo tận cùng kỹ thuật, khoa học- nghệ
thuật phối khí Tây Âu và kết hợp với tư tưởng độc đáo thuần Việt để dựng xây
một dòng nhạc của riêng mình. Con đường đích thực dân tộc dẫn đến nhân loại. Như
các đạo diễn điện ảnh, nhà soạn nhạc phải học hỏi, am hiểu tuyệt đối kỹ thuật
xây dựng tác phẩm, nhưng phải nói lên tiếng nói độc đáo của thuần dân tộc mình.
Muốn xây dựng một
dòng nhạc độc đáo được thế giới công nhận, các nhà soạn nhạc phải cùng nhau
đoàn kết tìm một dòng nhạc đi từ dân ca thuần Việt. Đừng để ghen ghét, đố kỵ, phá phách bao trùm
trên đầu ta như bao nhiêu thế kỷ qua.
Những
năm gần đây, ông hay về Việt Nam dựng những vở nhạc kịch lớn, xin ông cho biết
khó khăn và thuận lợi khi dựng những vở khí nhạc lớn của ông tại nước nhà?
Khai bút trong căn nhà trên đất mẹ nhìn ra mặt hồ, hai
cây phượng vĩ như biết hát,
vở ba lê Sóng nhạc Trương Chi, vở
nghệ thuật tổng hợp Định Mệnh Bất Chợt (Kiều) v.v... được công diễn tại Nhà hát
lớn đối với tôi là một vinh dự và niềm vui lớn. Nhưng tâm nguyện của tôi
là muốn đóng góp tốt nhất cho nền âm nhạc nước nhà. Vinh quang luôn song hành
cùng đau thương. Thành công mang mầm thất bại, thất bại cũng dẫn đến thành công
vì lòng thành cảm kích Trời Đất. Trong cái khó, ló cái khôn, mình phải thích
nghi và khai thác những điểm mạnh, sự nhạy bén của nhạc công trong nước. Và làm
việc giữa những người Việt Nam với nhau, mình dễ hiểu nhau hơn.
Có
thể thấy rất rõ hai cảm hứng sáng tác lớn của ông qua những tác phẩm: Mỵ Châu
Trọng Thủy; Khóc tố Như, Định mệnh bất chợt, Sóng tình Trương Chi,… những thiên
tình sử đẫm lệ và Bà mẹ Việt Nam, Tây Nguyên, Hồn đất Việt, Hồn Thiêng Sông
núi,… tôn vinh, hào sảng khí phách dân tộc. Điều gì đã đưa ông đến những cảm hứng
sáng tạo này?
Sau những trăn trở và suy nghĩ của
mình, tôi nhận ra dân tộc ta, non sông ta mang hai điểm chính : hào khí và trữ
tình. Người nghệ sỹ sáng tác kết tinh được hai điểm này trong tác phẩm của mình
chắc dẫn đến thành công. Song muốn thành công phải có ba điều kiện : tài năng
thiên phú, ngày đêm điên dại với nghệ thuật ( tử vì đạo ) và thời cơ.
Trong hầu hết các tác
phẩm của tôi, tôi cố gắng thổi hồn dân tộc vào, để cao tính nhân văn, gạt bỏ giáo điều xu thời. Tôi luôn
nhớ câu của thi hào Ba lan Adam Mickiewicz : "Ta bay trên đầu thế kỷ nhân
gian". Tâm hồn tôi hoàn toàn tự do
bay bổng trên giải Trường sơn nhớ đến các chiến sỹ "xẻ dọc Trường sơn đi cứu
nước" và biết bao oan hồn lẩn khuất nơi đây. Nào Vạn lý trường thành, Hy mã lạp sơn, núi
Phú sĩ, thác Niagara, núi Kilimandjaro đỉnh cao nhất Phi châu, nào Tây thi,
Dương quý phi, Kiều, tôi hoàn toàn tự do
nhập hồn vào hầu đồng và quên hết cả.
Trong những tác phẩm nhạc kịch dựng gần đây của ông, không chỉ có
sự phối hợp của nhiều thể loại opera, ballet, … mà còn có cả nhạc: đồng quê,
rock, tiếng tỳ bà, ca trù,… sự kết hợp này đã mang đến cho công chúng nhiều ngạc
nhiện và trải nghiệm âm nhạc thú vị. Nhưng đối với ông, nhà sáng tác, đó có phải
là do những âm thanh đã bất lực khi biểu đạt những cảm xúc và ý tưởng khiến ông
phải mượn đến những thể loại nghệ thuật âm nhạc khác?
Tôi đưa rock, ca trù, ngâm thơ, hầu đồng v.v...vào
một vài tác phẩm là đã chọn cho nó đúng chỗ. Những tác phẩm này mang tính chất
sân khấu. Dùng ngũ cung thẳng băng để sáng tác, theo ý thô thiển của tôi,
có lẽ là cái bình phong đôi chút dễ dãi.
Âm thanh không bao giờ bất lực. Nếu âm thanh
không được dùng đúng chỗ,không được kết nối tinh xảo, diệu huyền thì nó nó trở
thành bất lực mà nó còn làm thính giả "đau bụng" (nghĩa đen ) vì âm nhạc có tác dụng trực tiếp
đến thần kinh, khác với các nghệ thuật khác. Trong vở opera ballet Kiều, tôi đã
đưa nhạc rock vào màn" Kiều thác loạn lầu Ngưng bích" vì chỉ loại
nhạc này, trong bối cảnh này mới tả được thác loạn, mới đem cho khán giả ngạc
nhiên, sững sờ rồi đồng cảm. Nếu chỉ tìm cái lạ cho lạ thì không có tác dụng gì
cả.
Tôi có đưa ngâm thơ, ca trù, chầu văn, hầu đồng ...
vào một vài tác phẩm của tôi không phải để tạo một sự khác lạ mà chính là để âm
nhạc bác học giao hưởng phong phú hơn, có những nét mới hơn. Hãy tìm cái hay
trong sáng tác trước cái đúng hay sai. Quan niệm phải đúng (? ) vì quá hãi hùng
cái sai (?) làm người nghệ sĩ sáng tác co rúm lại, tự trói mình vì giáo điều đè
nặng trên đầu. Vậy cứ chân thành đóng góp tốt nhất cho nền văn hiến thuần Việt.
Lòng thành cảm kích Trời Đất. Không cho ngoại vật động đến tâm mình.
Nhạc
bác học vẫn kén chọn độc giả Việt, nhạc sĩ suy nghĩ sao về điều này? Ông đã bao
giờ lên kế hoạch biểu diễn gần với công chúng như một chương trình quảng bá nhạc
bác học cho đại đa số công chúng trên các sân vận động lớn, quảng trường lớn ở
Việt nam chưa?
Nhạc bác học luôn kén người nghe từ
New-york đến Tokyo vì nó đòi hỏi sự quen thuộc và nhất là sự cố gắng tìm hiểu.
Âm nhạc mang cá tính trừu tượng nên nó hơi xa thực tế, trong khi văn thơ, hội
hoạ gần xã hội hơn. Thời nay, con người tìm cái dễ dãi,
loại nhạc tiêu khiển, hưởng thụ thật nhanh. Nhưng thời nào cũng thế, bác học
uyên thâm và dễ dãi nhất thời đều ở chung trong ý thức hệ nhất nguyên.
Ông
có thể chia sẻ với độc giả đôi điều về kế hoạch sáng tác của ông trong năm mới
đang đến rồi không?
Tháng 2-2014 này, tác phẩm Tiên Du do Bộ
Văn hoá Thể thao và Du lịch đặt viết sẽ ra mắt tại Paris khai mạc Năm Việt
Nam tại Pháp. Tôi đang sáng tác một bản giao hưởng cho Dàn nhạc giao hưởng VN. Tháng
10, Chủ tịch Hội nhạc sĩ VN Đỗ Hồng Quân có mời tôi tham gia trong Festival lớn
sẽ diễn ra tại Hà Nội và Quảng Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét