Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

NSGD PHẠM THỊ HUỆ: NGƯỜI GIỮ HỒN NHẠC CỔ




 Nhật ký , 17/6/1996.
....Bước chân ra khỏi phòng thi, đằng sau tôi là những tiếng vỗ tay, ồn ào những lời chúc mừng. Trên tay tôi, những bó hoa còn đang rưng rưng xúc động. Tôi muốn thoát ra khỏi tất cả những gì vừa diễn ra. Thế là hết 15 năm học!
Tôi ngồi thừ ra, một mình trong phòng với cây đàn tỳ bà trong tay, biết bao tháng ngày đàn đã cùng tôi miệt mài đi tìm hồn dân tộc. Khi gặp chuyện rủi ro đàn đã khóc cùng tôi và cả bây giờ nữa khi không biết ai sẽ cần đến tôi và người bạn tri âm này. Chẳng ai muốn nghe đàn cất lên những âm thanh trầm bổng, những ngón đàn được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Mà tôi cũng chỉ mới nhặt nhạnh được vài mẩu rơi vãi của các nghệ nhân. Còn cả một kho báu khổng lồ tôi chưa hề được học, chẳng biết mình có duyên tìm được và giữ lại một phần nhỏ của kho tàng ấy hay không. Tôi đã khao khát có được hồn nhạc truyền đời, và tôi biết tôi sẽ còn khát khao mãi mãi. ...Câu hỏi ''bạn sẽ làm gì với tấm bằng cử nhân trong tay?'' chợt thoáng trong đầu. …  Nếu chúng ta chỉ cần đàn ở nhà hàng để kiếm sống, chỉ cần đi diễn nước ngoài với vài bài tủ. Ai sẽ là người tìm tòi, gìn giữ và tiếp tục sáng tạo nên âm nhạc đang có nguy cơ bị thất truyền?
Giờ đây tôi đã nộp đơn xin ở lại trường và đang chờ quyết định xét duyệt. Niềm ao ước của tôi là được ở lại trường, tôi sẽ tiếp tục đi tìm những ngón đàn của ông cha và sẽ truyền lại cho thế hệ sau. Đó là trái tim và trí lực của tôi, thời cơ và may mắn đó có đến với tôi hay không, còn phải chờ xem đã....”
 

......…..

Cứ thứ 3, thứ 5 thứ 7, ngôi nhà cổ số 28 Hàng Buồm lại nhộn nhịp người Tây, người ta cả già và trẻ nhẹ nhàng đi vào, đi ra. Thấp thoáng trong ngôi nhà đó, bóng một thiếu phụ trẻ có khuôn mặt hoa da phấn xinh đẹp và đôi mắt buồn luôn phảng phất nét phiêu diêu. Chị là Nghệ nhân Phạm thị Huệ, cũng là người quản lí và đào tạo các ca nương trong giáo phường Ca Trù Thăng Long. Là cô nữ cử nhân xuất sắc đàn Tỳ Bà, học viện Âm nhạc Hà nội ngồi ôm đàn trong đêm tốt nghiệp viết những dòng nhật ký đầy suy tư và khao khát. Mười hai năm đã qua, giờ cô cử nhân ấy là nghệ nhân dân gian, đào nương, đào đàn, thạc sĩ, chủ nhiệm giáo phường ca trù Thăng Long - một trong những giáo phường ca trù hoạt động tích cực nhất hiện nay. Tài sắc vẹn toàn, tài năng hiếm có vừa là ca nương vừa kép đàn như Phạm Thị Huệ cũng là xưa nay hiếm trong Ca Trù.
Tháng 6 năm 2006, lễ “mở xiêm y” cho đào/kép của phường Ca trù tưởng như chỉ còn trong trang sách đã xuất hiện trở lại sau 60 năm vắng bóng biệt tăm. Đệ nhất ca nương Nguyễn Thị Chúc và đệ nhất đàn kép Tứ kỳ Nguyễn Phú Đẹ đã đứng ra chủ trì “mở lễ xiêm y” cho học trò  Phạm Thị Huệ chính thức trở thành ca nương, kép đàn, được phép diễn xướng độc lập. Lần đầu tiên, Ca Trù xuất hiện một nghệ sĩ thanh sắc vẹn toàn hát hay đàn giỏi.
 Nghệ nhân dân gian, đệ nhất danh ca của thế kỷ XX, Nguyễn Thị Chúc nhớ lại “Tuần ba buổi, Huệ đi xe đến tận nhà tôi xin học. Chỉ học trong vài tháng, Huệ đã thuộc hết các bài. Tuy còn phải tập luyện nhiều nhưng bấy nhiêu thôi cũng cho thấy cô ấy là tài năng ca Trù thiên bẩm. Dần dà tôi hiểu rằng Huệ sinh ra và sống vì ca Trù chứ một chữ tâm huyết thôi chưa đủ”. Còn danh cầm đàn đáy Tứ Kỳ hay người của những ngón đàn tuyệt chiệu - nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ luôn cười hài lòng vì ở tuổi 82 ông mới nhận được một truyền nhân lại là người học trò “có bàn tay vàng” rất dỗi chăm chỉ, ròng rã ba tháng liền đi đi về về cả trăm cây số xuống nhà ông theo học.
Tháng tám năm đó, ca nương Phạm Thị Huệ cùng hai người thầy của mình lập ra câu lạc bộ ca trù Thăng Long với mong muốn đưa ca trù tới đông đảo khán thính giả và đào tạo lớp ca nương, kép đàn kế cận. CLB Ca Trù Thăng Long đã thu hút được nhiều học trò trẻ tuổi và ngày được nhiều khán giả biết đến. Mong muốn khôi phục lại nhạc cổ, tìm về nhạc cổ nguyên vẹn thể hiện ở mốc son mà Ca Trù Thăng Long đã làm được đó là đưa nghệ thuật Ca trù về cửa đình trình diễn. Định kỳ hàng tuần, bầu đoàn đào nương, kép đàn CLB Ca trù Thăng Long biểu diễn và truyền dạy tại đình làng Cống Vị (Ba Đình) thu hút thêm nhiều khán giả đến với Ca trù và CLB.  "Từ không gian Hát cửa đình, đến thế kỷ 19 mới phát sinh không gian ca quán. Hát cửa đình là một trong những hình thức diễn xướng chính thống và lớn nhất của ca trù." (nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền). Với những đêm diễn ở Đình làng Cống Vị, CLB Ca trù Thăng Long đã mở một "lối đi ngược" ý nghĩa - đưa Ca trù từ ca quán trở lại với không gian Hát cửa đình. Hoạt động lặng lẽ và da diết như thanh âm đàn tỳ bà, hai năm sau ngày thành lập, CLB Ca Trù Thăng Long lại mở lễ xiêm y theo đúng trình thức cổ truyền cho bảy ca nương, kép đàn sau những năm tháng đào tạo và rèn luyện công phu. Họ đều là những người rất trẻ, tuổi đời trên dưới 20 như Thu Thuỷ, Thuỳ Chi, Kim Ngọc, Lệ Nhật…
Trong đêm biểu diễn tại đình Cống Vị để kính cúng tiền nhân khi UNESCO công bố Ca trù là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp, trong khi mọi người náo nức, hồ hởi thì Huệ nương lại không khỏi ngậm ngùi khi giữa làn điệu Cảm thu, Thét nhạc của Ca trù cổ lại chói lên tiếng loa hát nhạc mới của một cuộc hội họp gì đó ầm ĩ loa đài ở bên cạnh. "Mặc dù rất được Ban quản lý Đình Cống Vị ủng hộ và quan tâm, và chương trình đã có sự chuẩn bị trước, để chào mừng ca trù và quan họ được thế giới công nhận, nhưng vẫn thiếu một sự tôn trọng và nhường nhịn cần thiết để có được một đêm diễn theo ý muốn chúng tôi. Nhưng đó cũng là điều mà tôi thường chứng kiến trong quá trình đeo đuổi ca trù". Nghe như tiếng than thật xót xa “Nghệ thuật truyền thống vẫn chưa có được chỗ đứng trong công chúng!”.
Đau đáu một hành trình dài xuyên suốt: tìm về với nhạc cổ - di sản văn hoá dân tộc, khôi phục, bảo tồn và làm sống lại trong lòng công chúng, trong đời sống hiện đại Phạm Thị Huệ đã tự định cho mình con đường đi. Tưởng như chặng đường hiện tại làm sống lại một đời sống âm nhạc “đã đi xa quá xa đời sống hiện tại của chúng ta bây giờ” là thử thách chông gai nhất thì Huệ nương đã tìm được lối đi. Không hạn hẹp trong những bài ca cổ, và các thức, bên cạnh việc quảng bá nét đẹp của ca trù, đưa ca Trù tới gần công chúng bằng những chương trình biểu diễn đều đặn tại ngôi nhà cổ 28 Hàng Buồm, Phạm Thị Huệ đã đưa kỹ thuật thanh nhạc của ca trù ngâm, nảy những trích đoạn trong Kiều, chị cũng dùng ca trù để viết Kiều khúc cho đàn Tỳ bà độc tấu và hát. Nhìn lại những thành công nối tiếp của Ca Trù Thăng Long, từ những giải thưởng lớn trong cuộc thi Liên hoan ca trù toàn quốc (2009), giải thưởng Đào Tấn cho các nghệ nhân, bằng khen có công trong việc gìn giữ văn hoá cổ của Bộ Văn Hoá, Thể Thao, và Du lịch,…trở thành giáo phường Ca trù Thăng Long hoạt động theo các chuẩn mục luật lệ, tục xưa, đến danh hiệu Nghệ nhân dân gian do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam trao tặng (năm 2012…thì ánh hào quang ấm áp đã xua đi nhiều chông gai và thử thách. Tài năng và định mệnh gắn ca Trù, nghệ nhân dân gian Phạm Thị Huệ đang từng bước đưa Ca trù - một nét đẹp của văn hoá truyền thống Việt Nam, đến với công chúng trong nước và quốc tế.
Hà nội những ngày đầu năm 2013, 
Trần Nga

Tìm hiều thêm thông tin về CLB ca trù Thăng Long tại: www.catruthanglong.com

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Nhiệt huyết người làm nghề



Nhân dịp chào mừng 60 năm thành lập Nhà hát, Nhà hát chèo Hà Nội – NHCHN đã công diễn 7 vở diễn kinh điển Quan Âm Thị Kính, Nàng Sita, Cô Son, Quan lớn về làng, Oan khuất một thời, Ngọc hân công chúa.và thu hút hàng ngàn lượt xem, phải kéo thêm đêm diễn so với lịch trình. Cú lội ngược dòng ngoạn mục này của sân khấu chèo Hà Nội trong thời đại khủng hoảng kinh tế và tinh thần này là do đâu? Vì sao sân khấu Chèo Hà Nội giữ được tinh hoa của nghệ thuật truyền thống vừa mang hơi thở thời đại? Công chúng có thực sự quay lưng lại với nghệ thuật truyền thống?... Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa P.V Minh Anh với NSUT Trịnh Thúy Mùi, giám đốc nhà hát Chèo Hà Nội xung quanh những câu hỏi này. 
Phóng viên: Trước hết, xin chúc mừng bà và NHCHN nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập đã rất thành công với một loạt đêm diễn sốt vé tại Thủ đô với 7 kịch mục kinh điển.Thành công này có phải là một phần trong kế hoạch được chuẩn bị trước không, thưa bà?
Nghệ sĩ ưu tú Trịnh Thúy Mùi: NHCHN chúng tôi luôn luôn đau đáu, hết mình với chương trình, tiết mục mới. Từ diễn viên, đến đạo diễn, đến tác giả…. Công diễn không hiệu quả, thì chúng tôi rất là buồn, và cảm thấy mình có lỗi. Bản thân tôi những vở diễn nào ra không có khách tôi thấy mình có tội. Nghệ sĩ của chúng tôi làm việc lăn lộn đến độ không nhớ ngày giờ rất nhiều. Tôi cũng cảm thấy tự hào và may mắn vì có được những đồng nghiệp cùng ý chí với mình. Chính vì vậy mà NHCHN mới kéo được khán giả đến với mình. Chúng tôi tin rằng khán giả không quay lưng với Chèo.
Một điểm mạnh của NHCHN là truyền thống truyền lửa giữa các thế hệ. Nhiều cô chú nghệ sĩ về hưu rồi hàng năm đến nhà hát, ngập tràn tâm huyết, moi ruột gan để truyền nghề cho thế hệ sau chỉ với ước nguyện nghệ sĩ trẻ giữ được truyền thống của Nhà hát. Các cụ căn vặn, năm rồi làm việc như nào, định hướng ra sao trong năm tới. Những năm đầu tiên tôi lên làm giám đốc phải trả lời rất nhiều câu hỏi từ phía các cụ nghỉ hưu. Vậy đó các cụ đang cho tâm huyết, cho nghề nghiệp và giao cho trách nhiệm phải làm gì.

Có ý kiến cho rằng, trong thời điểm hiện nay khi mà khủng hoảng kinh tế kéo dài, con người lâm vào khủng hoảng tinh thần. Khi những giá trị văn hóa bề nổi rạn vỡ, và xuống dốc tinh thần, người ta lại tìm về văn hóa bề sâu, tìm về triết lí dân gian như một cuộc tĩnh tâm để định hướng. Người dân thủ đô dường như cũng không nằm ngoài vòng tâm lý xã hội đó trong hơn một năm nay. Nhờ thế mà sân khấu Chèo- một sân khấu nghệ thuật truyền thống với những triết lí dân gian sâu sắc, đã cuốn hút khán giả trở lại. Bà suy nghĩ như thế nào về nhận định này?
Quả thật, cách đây ba bốn năm, chúng tôi tới các đơn vị mời xem, đi diễn trọn gói cho các tập thể. Mà chẳng vẫn ít người xem vì xu thời đang thế, cuộc sống rất vội và sôi động. Nhưng hơn một năm nay, người ta đã sống chậm lại một chút. Khán giả của chúng tôi phần lớn là những cá nhân, những đôi, những gia đình – những khán giả mua vé lẻ. Họ tự bỏ tiền và tự tìm đến những tiết mục, vở diễn. Nên thời điểm này, cái sự xem không phải là trào lưu, theo phong trào tập thể. Mà khán giả của chúng tôi tự nguyện và mong muốn thưởng thức nghệ thuật Chèo thực sự. Mặc dù là suy thoái, về kinh tế chúng tôi giảm đi nhưng cảm hứng cho nghệ sĩ đã tăng lên. Nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc và diễn thăng hoa hơn vì gặp được sự ham muốn, chờ đợi thực sự của khán giả. Chúng tôi cảm nhận sự trở lại thực sự của sân khấu.
Số lượng khán giả đến với sân khấu Chèo năm nay so với ba bốn năm trước như thế nào, thưa bà?
Ba bốn năm trước khán giả rất ít. Mỗi một chương trình mới ra rất trầy trật. Chúng tôi phải mời những tổ chức, đoàn thể tới xem tập thể. Nhưng từ năm ngoái đến nay, khán giả đã đến với chúng tôi ngày một đông hơn. Nhiều thì chưa dám nói nhưng mỗi vở mới ra, công diễn khoảng 10 buổi hết vé. Mà giá vé cao chứ không hề rẻ. Sắp tới đây chúng tôi sẽ công diễn Nàng Sita trọn tới đêm diễn thứ 1000 và tổ chức kỉ niệm 1000 đêm diễn Nàng Sita. Các vở diễn Cao Bá Quát, Quan lớn về làng cũng rất đông người xem, thường tổ chức từ 7- 10 đêm phục vụ khách.
Khi khán giả trở lại với sân khấu Chèo thì đó cũng đặt ra những thách thức đối với người nghệ sĩ nói riêng và NHCHN nói chung: làm khán giả hài lòng, giữ được khán giả và lôi kéo mạnh hơn nữa hay sẽ trở lại giai đoạn đìu hiu của nhiều năm về trước. Bà và Nhà hát đã chuẩn bị những gì mới cho sự trở lại đầy thử thách của khán giả thời điểm này và thách thức lớn nhất đối với Nhà hát là gì?
Với NHCHN thì không phải bây giờ mới nhìn thấy đây là thách thức của mình mà chúng tôi đã được trải nghiệm tất cả những thử thách của khán giả thủ đô HN. Thứ nhất là khán giả HN là đối tượng khán giả dân trí cao đồng nghĩa với đối tượng khán giả khó tính, đồng nghĩa với khán giả đòi hỏi rất cao. NHCHN từ xưa đến nay được tôi luyện trong áp lực thường trực ấy. Do đó khi xây dựng mỗi chương trình, tiết mục mới chúng tôi luôn lựa chọn những cách thức chuẩn mực từ khâu kịch bản. Chúng tôi luôn tạo dựng những ngôi sao mới, hình ảnh nghệ sĩ trẻ bên cạnh dàn ngôi sao cũ: Quốc Anh, Thanh Loan, Thu Hằng, Quốc Chiêm… Mỗi vở diễn luôn có những hình tượng cũ và những diễn viên trẻ mới.
Đời sống đi rất nhanh, sự giao lưu quốc tế rất mạnh mà sân khấu giờ phải đuổi theo không kịp. Sâu khấu Chèo phải tìm những đỉnh cao mới để kéo khán giả trở lại với mình.
Tuy nhiên để duy trì phong độ và giữ được khán giả Thủ đô thì Nhà hát không thể diễn mãi những vở đỉnh cao cũ. Ở cương vị nhà lãnh đạo Nhà hát, xin bà cho biết con đường đi của nhà hát được xây dựng và đi như thế nào?
Định hướng của nhà hát chèo là bảo tồn những vở diễn kinh điển. Bảo tồn nó là yếu tố cần và tất yếu là bệ phóng cho sự phát triển. Bởi vì không có cái truyền thống ấy để các diễn viên trẻ kinh qua học hỏi những vở cổ điển ấy thì không thể nào đến với nghề được. Nghệ sĩ nào kinh qua càng nhiều vai diễn mẫu thì càng có nhiều thành công. Vì trong diễn cổ điển nó hội tụ tương đối đầy đủ các kỹ năng của người nghệ sĩ Chèo.Tuy nhiên không phải là sự bảo tồn chết, trong những cái kinh điển ấy xuất hiện những cái mới thể hiện ở: diễn viên mới với tài năng và cá tính gánh vác trách nhiệm bảo tồn và những yếu tố phát triển mới; mỹ thuật, âm nhạc, tiết tấu, trang phục, sân khấu, ánh sáng được thiết kế và sáng tạo  khác xưa. Sân khấu Chèo giờ rất đẹp và lung linh, tiết tấu nhanh, thông tin đời sống hôm nay được thổi vào cho dù là vở chèo dân gian hay tích xưa,…Như vở Nàng Sita dựng lại công diễn lần này có nhiều điểm khác với vở nguyên gốc dựng năm 1983: Mi về đạo diễn khác, dung lượng kịch bản giảm 1/3, tiết tấu nhanh hơn, thiết kế sân khấu, trang phục được thiết kế hiện đại, chi tiết hơn.
Nhưng giả định rằng, tôi ở tận Sóc Sơn rất thích xem Chèo nhưng không thể chạy xe về rạp Đại Nam xem được. Vậy NHCHN làm thế nào để tìm đến những khán giả không ở trung tâm như vậy?
Mở rộng địa bàn phục vụ, tìm đến khán giả là một phần trong chiến lược phát triển rộng của chúng tôi. Một năm NHCHN có khoảng một trăm đêm đi biểu diễn ở các vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội. Nhất là Hoài Đức, Sóc Sơn, ba vì, Quốc Oai, Gia Lâm… là những nôi chèo xứ Đoài, xứ Đông,… điển hình của chèo Bắc,  chỉ cần có thông tin yêu cầu thôi là chúng tôi sẵn sàng về huấn luyện cho những câu lạc bộ Chèo địa phương để vừa tự diễn tự xem. NHCHN hướng tới xây dựng khán giả trẻ bằng chương trình 1-6 và Trung thu cho em dành cho thiếu nhi từ ba năm nay, thu hút được rất đông khán giả, trên 50 suất diễn trong năm nay. Thông qua các tiết mục, tích Chèo nhỏ các em có thể hình dung được những nét dễ nhất về hát Chèo, diễn Chèo. Hy vọng qua đó nuôi dưỡng cảm xúc về Chèo trong kí ức tuổi thơ của các em.
 Vâng, nhiều người vẫn mơ về thời hoàng kim của Chèo cách đây 20 năm. Bà có nghĩ rằng đó là một giấc mơ đẹp nhưng cần những định hình thực tế hơn trước những ngành công nghệ giải trí hiện đại?
Không thể nào. Tâm thế của người xem, tư duy, trí tuệ và cuộc sống hôm nay khác hai mươi năm về trước. Nếu như cứ ngồi mơ và dựng chỉ để dựng và tiêu cho hết tiền rồi lại mang ra kêu tại sao tôi dựng mà khán giả không xem, thì hãy tự xem xét lại. Không cãi với Nhà nước, không cãi với khán giả chỉ cãi với lương tâm mình. Nếu anh không tâm huyết, sáng tạo nửa mùa, vở hôm nay giống vở hôm qua, giống năm ngoái giống mười năm về trước thì làm chỉ để chống đối, để hết trách nhiệm với tiền Nhà nước. Làm trong tư duy như vậy thì không bao giờ khán giả đến. Tâm thế của khán giả xem hôm nay không giống hai mươi năm trước thì hai cái đó không bao giờ gặp nhau được. Nếu không có sự nhiệt huyết và cố gắng từ chính những người làm nghề thì cũng không đem lại được nhiệt huyết cho người xem. Chúng tôi biết rằng, việc giữ được nhiệt cho khán giả vô cùng khó. Chúng tôi sẽ tìm cách để khán giả có thể đến được với những chương trình có chất lượng cao của NHCHN.