Thứ Hai, 24 tháng 8, 2009

Lady Borton và hành trình kiểm chứng những kí ức lịch sử




Gặp bà Lady Borton vào chiều ngày 19-8, và tôi không ngạc nhiên lắm. Bà bận một chiếc áo hoa cũ cộc tay và choàng một chiếc khăn tơ tằm thô. Những người nước ngoài sống và làm việc lâu ở Việt Nam mà tôi đã gặp thường ăn mặc như thế. Nhưng điều làm tôi cảm thấy gần gũi và thân mến nhất có lẽ là câu “chào em” cùng nụ cười dịu dàng trên khuôn mặt nhiều nếp nhăn của bà. Sự mở đầu này làm tôi phấn chấn rất nhiều sau những phân vân trong đầu về lựa chọn đề tài nào để trò chuyện với bà, một người được coi là “Người phụ nữ Mỹ duy nhất hiểu Việt Nam một cách cặn kẽ”. Những gì tôi đọc về hoạt động của bà ở Việt Nam thật tổng quát và thấm đẫm lịch sử Việt Nam hiện đại: là một nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động từ thiện, đã sống và làm việc ở Việt Nam từ năm 1978; biết tiếng Việt và đã viết 3 cuốn sách về VN: Những người thuyền nhân (1894); Tiếp sau nỗi buồn (1995); Hồ Chí Minh một hành trình (2007); bà cũng dịch nhiều cuốn sách chứa những nhân vật và sự kiện lịch sử của Việt Nam sang tiếng Anh như: Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm; Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Võ Nguyên Giáp thời trẻ;… nên tôi đã nghĩ rằng bà sẽ là nhân vật phù hợp cho số báo kỷ niệm ngày Quốc Khánh.
Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp trong những kí ức được kiểm chứng

Thực vậy, khi tôi nói đến ngày Quốc Khánh của Việt Nam thì bà nhắc ngay đến ngày sinh nhật ông Giáp (25-8-1911) và những kỷ niệm trong quá trình tiếp cận và nghiên cứu cũng như dịch sách về “cụ Hồ” và “ông Giáp” (theo cách nói của bà). “Đây là bộ sách Võ Nguyên Giáp thời trẻ của trung tướng Phạm Hồng Cư, bản tiếng Anh là tôi dịch, sách tiếng Anh thì bán hết ngay rồi. Những sách này với người nước ngoài là quý lắm.” Nói về nhân duyên gặp ông Hồng Cư, bà kể: Năm 2004, khi bà dịch cuốn sách Điện Biên Phủ- Điểm hẹn lịch sử của ông Giáp, có nhiều điểm bà không thể hiểu được vì “Tôi thì là một người phụ nữ chưa bao giờ vào quân đội, lại là người nước ngoài và còn rất trẻ”. Nhờ một người bạn thân từng là bác sĩ trong quân đội tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ giới thiệu ông Hồng Cư, lúc đó đang viết cuốn sách này. Khi cuốn sách Võ Nguyên Giáp thời trẻ xuất bản, bà biết ngay đây là một cuốn sách quan trọng, viết về một nhân vật đặc biệt. “Người nước ngoài mà biết tên một người Việt nam còn sống thì đó chính là Võ Nguyên Giáp”- bà khẳng định. Song điều quan trọng là tác giả cuốn sách là một người rất thân thiết với gia đình cũng như với ông Giáp lâu năm và viết rất công phu, tỉ mỉ. Một cuốn sách nhỏ (hơn 100 trang), nhiều hình ảnh “nhưng tôi là người trong nghề nên biết ngay đây là cuốn sách rất đặc biệt. Viết dài thì rất đơn giản nhưng ngắn và tỉ mỉ chi tiết mà tất cả mọi người đọc mà hiểu ngay là rất khó. Quả thực với người nước ngoài người VN đầu tiên mà họ biết là Hồ Chí Minh sau là đến Võ nguyên Giáp. Và vì sao một người từ Quảng Bình, không có dịp được đào tạo trong một trường quân đội chính thống lại trở thành tổng tư lệnh quân đội VN, lại lãnh đạo quân đội Việt nam chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Rất là lạ nhé. Vậy hãy đọc cuốn sách này.” Cho dù cuốn sách Võ Nguyên Giáp thời trẻ bằng tiếng Anh do bà dịch đã xuất bản và phát hành nhưng dường như những dữ kiện cùng nhân vật trong cuốn sách còn choáng ngợp trong tâm trí một người dịch rất cẩn trọng như bà. Và bà say sưa kể về những chi tiết trong cuốn sách cũng như cách đọc, dịch và kiểm chứng tư liệu của bà: “Khi còn nhỏ ông Giáp học chữ nho với bố. Đến giờ Ông vẫn nhớ những câu thơ trong bộ sách Tam Tự Kinh và Ấu học tân thư (xuất bản dưới thời vua Duy Tân). Năm mười hai mười ba tuổi, ông học trung học ở Quốc học Huế. Khi cụ Phan Bội Châu về nước, học trò thường đến, trong đó có ông Giáp. Ông Giáp đã tham dự Đảng Tân Việt, đảng này đã không đến được cuộc họp ở Hương Cảng năm 1930 do Hồ Chí Minh thay mặt Quốc tế cộng sản Đảng triệu tập để hợp nhất ba Đảng. Khi mình dịch cuốn sách về HCM cũng nói đến một Đảng không đến được và người ta đã đặt ra bao nhiêu là giả thuyết, bao nhiêu chuyện. Nhưng đọc quyển này mình đã biết được cụ thể đó là chuyện gì! Vì sao Đảng này không thể đến được cuộc họp hôm ấy. Nhiều chi tiết rất rõ. Nhiều sách nước ngoài viết rất khác về lãnh đạo, về kháng chiến Việt Nam. Họ cho rằng ông Giáp chưa bao giờ bị bắt nhưng họ đã sai. Ông Giáp đã bị bắt ở Huế. Cuốn sách này cũng kể về hai vợ chồng biết nhau như thế nào, rồi con cái gặp nhau như thế nào. Thú vị và cảm động lắm. Ông Hồng Cư là học trò của Đặng Thai Mai, nếu không có chiến tranh thì sẽ là nhà văn; còn ông Giáp thì có lẽ trước hết sẽ là nhà báo. Ông có bao nhiêu bài viết và biên tập bài viết in bằng tiếng Pháp khi giữ chuyên mục Thế giới thời đàm của tờ báo Tiếng Dân (là tờ báo mà Trường Chinh gọi là “Thét Tiếng Dân giữa kinh thành Huế”). Ông đọc và nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị khắp thế giới, viết bài. Lúc học đại học ở HN ông học Luật, sau đó là nhà giáo dạy lịch sử. Ông đã đọc rất nhiều lịch sử các nước thuộc địa Đông Dương và thế giới. Nhất là lịch sử Pháp, nhân vật lịch sử Napoleon. Tôi đã sang thư viện Bộ Quốc Phòng Pháp và thư viện Bộ quốc phòng thuộc địa của Pháp một tháng. Đọc nhiều tài liệu và cũng sao chụp được nhiều thông tin hoạt động này của ông Giáp. Ông Giáp có một quyển sách thống kê giới thiệu tất cả các tướng của Napoleon đấy. Và có lẽ người Pháp lúc đó không ngờ một người nước thuộc địa lại có thể hiểu về nước Pháp. Chính vì thế đã thất bại trong trận chiến với ông Giáp. Ông ấy hiểu người Pháp, lịch sử, tâm lý, cách quản lý, tổ chức của người Pháp rất sâu sắc. Nên chiến thắng của Việt Nam là chiến thắng của trí tuệ và toàn dân.
Nhưng ông Giáp không phải là không có thất bại đâu nhé. Ai nghĩ đến ông Giáp cũng chỉ nghĩ đến những thắng lợi mà thôi. Nhưng có đấy, năm 12 tuổi ông đã mơ ước học Quốc Học Huế và tin rằng việc thi vào đó cũng đơn giản. Vì ông là học trò đứng đầu lớp, đầu huyện, đầu tỉnh Quảng Bình lúc đó. Nhưng ông đã thất bại năm thi đầu tiên. Ông không biết vì sao. Ôi mất mặt quá. Cụ thân sinh ông chắc là người mất mặt và buồn nhiều nhất. Ông Giáp đã mất một năm để học và thi lại. Có lẽ ông ấy đã rút một bài học là lúc nào cũng nghĩ mình giỏi quá thì thất bại. Chi tiết này rất nhỏ bé nhưng rất xúc động. Ông Giáp là người như thế, dễ thay đổi và nhìn vào hoàn cảnh để thay đổi. Chính vì thế trong những trận chiến ông đã biến hoá rất nhanh.
Những năm gần đây, mỗi dịp sinh nhật ông Giáp tôi được đến dự cùng với đoàn nhà báo. Từ sáng sớm đã có bao nhiêu đoàn đến chúc mừng, từ đoàn Cao Bằng đến những phái đoàn nước ngoài. Ông giỏi lắm nói được cả tiếng Tày, Mông, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga,…Ông đã hơn 90 tuổi rồi mà đoàn Cao Bằng tới, ông vẫn nhớ tên, nhớ người dân tộc nào… Đến 6h chiều thì tôi mệt lắm rồi mặc dù tôi chỉ ngồi/ đứng mà nói chuyện hay quan sát thôi. Còn ông Giáp thì ai vào cũng nói chuyện, cũng bắt tay,… Ông giỏi quá!…”.



Bà Lady Borton là con ông John Carter Borton, một cán bộ phòng Thương mại Hoa Kỳ
sinh và nữ nhà văn Newlin Borton. Bà sinh vào ngày 8 tháng 9 năm 1942 tại thủ đô
Washington. Bà học rất nhiều trường Đại học: Hawaii (1962); Mount Holyoke
(1964); Pennylvania (1964-1965); Temple (1967); Ohio (1972,1975,1979); Goddard
(1979). Và trong suốt thời gian học tập này bà cũng đã hoạt động và có đời sống
làm việc vô cùng phong phú: dạy toán tại thành phố Westtown, 1964-1967; dạy sử
tại Philadelphia, 1967-1968; làm trợ lý giám đốc tại Chương trình tị nạn đường
biển- ủy ban Những người bạn Mỹ, 1968-1969; hoạt động tại Tổ chức Quaker (trung
tâm tái định cư ) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, 1969-1971; là nhà văn tự do và
phóng viên ảnh 1972. Trước giải phóng Sài Gòn- đầu năm 1975, bà đã đưa phái đoàn
giáo dục Mỹ đầu tiên đến Hà Nội; Làm giám đốc điều hành tổ chức Careline
1975-1977; đóng vai trò điều phối viên y tế cho Tổ chức Chữ thập đỏ tại trại tị
nạn Pulau Bidong, Tây Malaysia, 1980; lái xe cho trường thiểu năng trí tuệ
Beacon năm 1972; làm việc cho chương trình phục hồi tổ ấm 1972; làm thư ký nhà
sách B. Dalton, bang Ohio ba năm từ 1985-1988; làm giám đốc lâm thời Tổ chức
Quaker tại Hà Nội trong hai năm 1990-1991, giám đốc lĩnh vực năm 1993; sản xuất
chương trình rađio độc lập 1987; giữ mục bình luận tạp chí Akron Beacon, bang
Ohio năm 1989; bình luận viên bản cuối tuần, đài công cộng Ohio năm 1990; hợp
tác với trại viết văn về chiến tranh và hậu quả xã hội cho Trung tâm Joiner, Đại
học Massachusetts, từ năm 1884 đến nay. Tất cả những công việc này đã từng ngày
xây dựng lên bề dày đời sống kiến thức cũng như nội tâm phong phú của bà.

Hoạt động xã hội đã giúp bà có được những chi tiết cuộc sống cho những trang viết của một nhà văn. Đầy thương cảm và sự hiểu biết là những gì người đọc có thể nhận thấy trong từng trang viết của cuốn sách Những người thuyền nhân (1984)- viết về những người di tản Việt Nam qua đường biển và Tiếp sau nỗi buồn(1995)- viết về những phụ nữ VN trong và sau hai cuộc chiến tranh. Bà đã rất nổi tiếng trên diễn đàn văn học thế giới với hai quyển sách này. Công việc viết và dịch khiến bà càng gần gụi với nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử Việt nam hiện đại. Khi tôi bà vì sao lại có sự lựa chọn tiếp cận, nghiên cứu, viết và dịch sách nhân vật lịch sử Việt Nam hiện đại, nhà văn từng có hơn bốn mươi năm gắn bó với Việt Nam tâm sự: “Tôi hoàn toàn không có mơ ước hay dự định trở thành nhà nghiên cứu lịch sử. Nhưng tôi rất yêu thích lịch sử. Cách mạng Mỹ thì lâu rồi và những người sống từ thời đó thì không còn nữa. Cách mạng Việt Nam rất mới và những nhân vật lịch sử thì vẫn còn sống nhiều. Tôi rất quý những người như thế. Không cần đọc sách chỉ cần nghe họ kể. Và qua người bạn thân, tôi đã hiểu nhiều hơn về những ngày Cách mạng tháng 8. Chị ấy kể cho tôi những kỉ niệm kí ức được gặp Cụ Hồ từ năm chị 10 tuổi. Đó là ngày Quốc Khánh 2-9-945, Cụ đọc tuyên ngôn độc lập. Chị kể cho tôi là chị và bố đi lấy nước rửa đường. Tôi mới băn khoăn hỏi tại sao mẹ đâu mà lại là bố. Thì chị nói thêm là mẹ ở nhà để thắp hương. Và thế là tôi biết thêm chi tiết Ngày đó, mỗi gia đình đều có người ở nhà dọn dẹp, lau chùi sạch sẽ, treo đèn và thắp hương cúng ông bà, thông báo nước nhà độc lập. Rồi mấy ngày sau đó là đến Trung thu, Hồ Chủ tịch mời các cháu thanh thiếu nhi đến phủ dự tiệc. Và chị ấy được đến. Nghe Cụ nói “Các cháu là những người dân mới của một nước độc lập tự do”. Cuộc đời chị ấy thay đổi từ đấy. Lần đầu tiên chị ấy thấy mình có vai trò. Từ trước đến giờ con gái có được công nhận đâu. Sau đó chị đã tham gia đội cảm tử thành phố. Mình nghe câu chuyện thấy hay lắm và tiếp tục hỏi. Nhưng một câu chuyện bao giờ cũng ít nhất có hai phía. Để biết được sự thật mình phải suy nghĩ và tìm hiểu thêm. Cũng một câu chuyện từ chị bạn tôi kể. Lúc đó chị được tới dự một Hội Nghị có Cụ Hồ tới dự. Chị ấy lúc đó còn trẻ lắm nên chỉ ngồi ở hàng cuối cùng thôi. Cụ đến, đọc diễn văn, rồi bỏ kính ra nói chuyện. Rồi Cụ đi xuống dưới, gần hàng ghế của chị ấy và ngồi vào một cái ghế trống. Chị ấy là một người khoa học, rất tỉ mỉ nên tôi rất tin tưởng chị ấy. Cụ Hồ luôn muốn gần dân nên việc Cụ xuống ngồi thì chắc chắn không sai rồi. Nhưng tôi cũng nghĩ là, một cuộc gặp gỡ với Cụ Chủ tịch thì không thể có một ghế trống. Song chắc chắn không bao giờ Cụ xuống dưới ngồi và chịu để một người ở dưới đứng lên nhường ghế. Vậy chắc là đã có người đã chuẩn bị ghế ấy cho Cụ, chắc là một cán bộ phụ trách việc đó. Tôi nói điều ấy với chị ấy và chị ấy công nhận rằng: đúng, không bao giờ có cuộc gặp HCM mà lại trống chỗ ngồi cả. Nhưng việc chuẩn bị ấy chị ấy không biết. Và thế là tôi biết thêm một phần nữa của câu chuyện.”
Lady Borton- một dịch giả, một nhà văn hoá Việt Nam
Bà Lady Borton cũng không có kế hoạch hay dự định trở thành một dịch giả, một nhà văn hoá Việt Nam nhưng với những tác phẩm và kết quả công việc bà làm đã mang danh hiệu đó tới cho bà.
Khác với những tác phẩm nghệ thuật như âm nhạc hay hội hoạ, người xem có thể thẩm định ngay vẻ đẹp hay chất lượng kỹ thuật, tác phẩm văn học không trực tiếp đến với một độc giả ngôn ngữ khác như thế. Những cuốn sách văn học, văn hoá dịch có một vai trò quan trọng trong quá trình giới thiệu, giao lưu văn hoá Việt Nam sang thế giới. Nó là cầu nối cho việc giới thiệu tác phẩm gốc ra nước ngoài cũng như tiếp cận nhanh của độc giả ngôn ngữ khác. Song khi dịch một cuốn sách điều tốt nhất cho đối tượng đọc là người dịch bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng ở Việt Nam chủ yếu là việc dịch từ tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt sang tiếng Anh nên văn phong không sáng sủa, rõ ràng là một thực tế. Hiện trạng này càng khiến cho những cuốn sách dịch của Lady được độc giả tiếng Anh thích thú và đánh giá cao bản gốc hơn.
Cho đến nay bà đã dịch rất nhiều sách lịch sử Việt Nam có giá trị như Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, Hồ Chí Minh một hành trình, Điện Biên Phủ- Điểm hẹn lịch sử, Nhật ký trong tù, Thơ nữ Việt Nam từ xưa tới nay, Võ Nguyên Giáp thời trẻ, Từ nhân dân mà ra (chưa công bố),… Sự sâu sắc và tỉ mỉ cũng như tư duy logic tuyệt vời trong nghiên cứu, tìm hiểu và điều tra tư liệu đã khiến những chú thích trong những cuốn sách dịch của bà trở thành một phần giá trị cho cuốn sách và đầy hữu ích cho bạn đọc tiếng Anh. Song thật khiêm nhường, bà nói về bản thảo dịch Từ nhân dân mà ra của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Bản thảo tôi đã dịch xong lượt một rồi. Nhưng còn phải kiểm tra nhiều lắm. Đây không phải là cuốn sách mình viết nên mình phải tôn trọng tuyệt đối với người viết. Mình chỉ là người dịch. Làm sao để người đọc cho là đó là quyển sách của một người Việt rất giỏi tiếng Anh.” và bà cũng tâm sự điều tỉ mỉ nhất đối với việc dịch những cuốn sách Việt Nam là việc viết những chú thích, từ Truyện Kiều, phở, 36 phố phường,… đến các nhân vật và chi tiết phong tục. lịch sử, văn hoá cụ thể.
Một tuần một hai buổi bà tới tạp chí Cửa sổ văn hoá của NXB Thế Giới làm công việc của một người biên tập tiếng Anh chính. Còn lại phần lớn thời gian Bà dành cho việc dịch cuốn sách Vừa đi đường vừa kể chuyện của chủ tịch Hồ Chí Minh, cuốn Từ nhân dân mà ra ­của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Tây nguyên ngày ấy của bác sĩ Lê Cao Đài, một nhà nghiên cứu chất độc hoá học Dioxin. Bà nói: Đây là những tác phẩm vừa là hay vừa là viết rất chi tiết thời điểm lịch sử mà người nước ngoài không biết. Mà họ hay nói sai về Cụ Hồ, ông Giáp. Tôi chưa nói đến những quan điểm chỉ nói đến những chi tiết, cụ thể, tư liệu cụ thể. Tôi cũng cố gắng tìm nhiều nguồn tài liệu ở Pháp, Mỹ, Anh,... Còn cuốn Tây Nguyên ngày ấy viết rất chi tiết về quân đội Việt Nam cũng như hoạt động của họ trong cuộc chiến ở Tây Nguyên. Viết văn rất cần điều này, sự chi tiết cho thấy tác giả như đang sống ở hoàn cảnh ấy, tình huống ấy.
Người ta vẫn thường nói, một người không có thể làm tốt được nhiều việc cùng một lúc, nhưng nghiệm điều này với bà Lady Borton có lẽ không phù hợp. Con người nhà văn, nhà hoạt động xã hội, nghiên cứu lịch sử, văn hoá Việt Nam và dịch giả, biên tập viên không mệt mỏi và nhiều thành công, Lady Borton. Chúc nhà văn Lady Borton thật nhiều sức khoẻ để thực hiện những kế hoạch luôn mới mẻ và hữu ích cho cộng đồng của bà!

Thứ Năm, 6 tháng 8, 2009

Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ XX: sẽ ủng hộ những khám phá mở rộng năng lực diễn đạt

Từ năm 2008, kế hoạch thực hiện tuyển tập văn xuôi và thơ ca Việt Nam thế kỷ 20 của Hội Nhà Văn Việt Nam đã “rậm rạp” khởi động và thu hút được sự chú ý, quan tâm của đông đảo giới văn nghệ sĩ cũng như độc giả trong nước. Đặc biệt là Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ XX- một thế kỷ Thơ và Nhà thơ của nước nhà. Để thông tin tới thi sĩ và bạn đọc những thông tin mới nhất xung quanh hoạt động này, VNT xin giới thiệu cuộc phỏng vấn nhà thơ Vũ Quần Phương, trưởng ban biên tập Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Phóng viên (PV): Là trưởng ban biên tập Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX của Hội Nhà Văn Việt Nam (HNV VN), ông có thể giới thiệu về sự ra đời của Tuyển tập này?
Vũ Quần Phương (VQP): Tuyển tập Thơ thế kỷ XX đã có nhiều đơn vị làm rồi, thậm chí có cả những cá nhân- doanh nhân như bên ông Lê Lựu, hay quyển của Nhà xuất bản Giáo dục, hay của ông Gia Dũng. Hội Nhà văn với tư cách là tổ chức lớn nhất của nhà văn – nhà thơ VN, thì cũng thận trọng nhưng cũng phải làm vì thế kỷ 20 đã qua gần một thập kỷ rồi.
P.V: Như vậy về quy mô Tuyển tập lần này của Hội Nhà Văn sẽ có gì khác?
VQP: Nếu để giới thiệu nền thơ trong một thế kỷ của VN ra thế giới thì thật ra chỉ cần tuyển chọn 50-100 thi sĩ trong một thế kỷ đã là nhiều lắm. Song thế kỷ vừa rồi ở nước ta vừa đi qua một cách nóng sốt như vậy, nửa sau thế kỷ lại xuất hiện các nhà thơ một cách khá đông đảo. Chỉ riêng hội viên thơ của Hội đã có đến 500 người chưa kể những người làm thơ trước năm 1957 (năm thành lập HNV), rồi các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới, trước thơ mới còn có các cụ làm thơ bằng chữ Hán, chữ Nôm, từ cụ Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Đào Tấn đến cụ Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh,... Nên chọn ít là khó đấy nên chúng tôi nghĩ đến việc chọn rộng. Vừa để động viên anh em thi sĩ vừa để làm một kho lưu trữ dành cho những người thích tìm hiểu, sưu tập hay nghiên cứu, người đọc. Tuyển tập lớn sẽ là kho chứa, rồi trên cơ sở kho đó sẽ làm những tuyển hẹp khác dành cho từng đối tượng, mục đích: Nhà trường; Giới thiệu quốc tế;...
P.V: Vâng, việc chọn quy mô Tuyển tập không hề đơn giản ngay cả khi ông đã có trong tay nhiều nguồn tư liệu cũng như khối lượng dữ liệu tốt. Hẳn đã có rất nhiều cuộc trao đổi và thảo luận để đi đến những quyết định và cuối cùng là...?
VQP: Chúng tôi đã thảo luận rất nhiều từ năm 2008 và đợt này cũng đã tiến hành thực hiện hơn chục cuộc để chọn lựa rồi. Làm một tuyển tập với 500-600 người thì người “tiêu thụ” sẽ gặp khó khăn, họ sẽ phải mua một quyển sách hơi dày, tốn nhiều tiền lại mang nặng mất nhiều thời gian đọc nhưng có ưu điểm, cả Hội cũng vui nhìn lại một thế kỷ có dấu vết của mình thì cũng rất phấn khởi. Như vậy nếu làm quy mô lớn thì trước hết là vì các nhà thơ- ý nghĩa rất lớn, thứ hai cũng phải vì các bạn đọc thơ, nên chúng tôi cũng nghĩ đến làm một tuyển rộng ghi lại dấu ấn 100 năm thơ ca và một tuyển hẹp hơn. Lần thảo luận gần đay nhất, chúng tôi thiên về ýkiến làm tuyển rộng và tuyển hẹp. Sắp tới có hội nghị giới thiệu văn học VN ra quốc tế thì có thểể làm một tuyển hẹp nữa để giới thiệu những nhà thơ ưu tú, hoặc những bài thơ có sức cảm hoá, lay động lớn,...
P.V: Cụ thể việc khoanh vùng lựa chọn nhà thơ sẽ như thế nào, thưa ông?
VQP: Nhìn thoáng qua ta thấy sẽ gồm: Lớp thơ các cụ dùng chữ Hán, chữ Nôm; lớp Thơ mới; Hai lớp thơ trong hai cuộc kháng chiến, và lớp thơ thời hoà bình (sau năm 1975) đều có mặt trong tuyển thơ này. Đối với những hội viên của HNV thì chọn những hội viên cã th¬ trước năm 2001; bên cạnh đó có tuyển chọn những nhà thơ không phải là viên hội nhà văn như anh Việt Phương, Hoàng Hưng,…Tiêu chí đầu tiên chÝnh là phải có những bài thơ được độc giả biết đến. Còn nếu những ai làm thơ trước 2001 nhưng đến sau 2001 mới có những bài thơ được biết đến thì sẽ nằm trong một tuyển tập thơ khác... Còn cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Đào Tấn, chúng tôi chọn những bài tiêu biểu xuất hiện ở thế kỷ XX,...
PV: Tiêu chí bài thơ được tuyển chọn là như thế nào thưa ông?
VQP: Ở thời điểm này, theo tôi văn chương Việt Nam có điều kiện và nên và cũng có quyền lấy tiêu chí nghệ thuật của bản thân nó: cái hay, cái đẹp, cái tốt. Nên chúng tôi sẽ lấy tiêu chuẩn nghệ thuật (hình thức và nội dung) để định lượng và lựa chọn.
P.V: Thưa ông, một bài thơ đạt tiêu chuẩn nghệ thuật là bài thơ như thế nào?
VQP:Lãnh đạo Hội xác định bốn tiêu chí: yêu nước- cách mạng- dân tộc- nhân văn. Nghệ thuật diễn đạt: ủng hộ những khám phá mở rộng năng lực diễn đạt của thơ, tạo được ám ảnh, có sức phổ cập. Đó là những tiêu chí mà chúng tôi tự khu trú với nhau, cụ thể hoá vào từng bài thơ thì rất biến hoá.
P.V: Vâng, ngoài ra còn có tiêu chí ngoại lệ, hay đặc biệt khác không ạ?
Vũ Quần Phương: Có đấy, đó là tiêu chí về mặt thời gian. Có một số bài thơ đã để lại ấn tượng cho độc giả, tiêu biểu cho một thời kì thì nên có.Tiêu chí khác nữa là về mặt không gian. Nước mình dài, chúng tôi muốn mỗi miền đất đều có các phong vị trong tập thơ này. Hay dân tộc thiểu số nµo quá ít nhµ th¬ thì cũng có ưu tiên lựa chọn ... Nhưng cũng phải nói rằng, nếu có lựa chọn thì lµ họ đã (phải) làm nên cái màu, mùi, vị của từng không gian và từng thời gian cho Tuyển tập này.
P.V: Một tuyển tập lớn với hàng trăm tác giả như vậy thì việc sắp xếp thứ tự giới thiệu sẽ được thực hiện như thế nào, thưa ông?
Vũ Quần Phương: Để thuận lợi cho việc tra cứu cũng như tính khách quan, dân chủ trong thơ, chúng tôi sẽ sắp xếp thứ tự tên tác giả theo A,B,C... Nên sẽ có tác giả đầu thế kỷ như cụ Trần Tế Xương lại đứng gần cuối Tuyển tập, hay thơ của cụ Hồ Chí Minh có thể đặt cạnh thơ của Trần Nhuận Minh, hay Dương Kiều Minh,...
P.V: XX là thế kỷ đầy biến động lịch sử xã hội nước nhà và thơ nói riêng, văn chương- nghệ thuật nói chung cũng bắt nhịp với đời sống xã hội này, và tổng tập thơ thế kỷ XX như ông nói sẽ được chia theo các giai đoạn lịch sử: trước năm 1945; 1945-1975; sau 1975. Theo quan sát của ông, thơ ca từng thời kỳ có những đặc điểm như thế nào?
VQP: Khi bố trí tập thơ theo thứ tự A,B,C tên tác giả thì thời gian và giai đoạn xáo trộn với nhau, không rõ ra từng phần trong tập sách. Thế kỷ XX có đặc trưng về nội dung là chủ nghĩa yêu nước bao trùm khá trọn vẹn, ngay cả tình yêu cũng là tình trong chiến tranh, tình cha con, mẹ con,...cũng là tình trong chiến tranh. Chủ nghĩa yêu nước ở tập thơ này nó trội lên, có lẽ ngang bằng chủ nghĩa yêu nước thế kỷ 13 của nhà Trần chống Nguyên Mông.
P.V: Khó khăn nhất đối với Ban biên tập hiện nay là gì, thưa ông?
VQP: Cái khó là đã là một tuyển tập thơ của một thế kỷ một dân tộc thì phải bao quát được cả một giai đoạn. Chúng tôi đang khó ở giai đoạn lựa chọn tác giả Sài Gòn trước 1975. Đó là thời kỳ đất nước bị chia cắt, chia làm hai chiến tuyến bên hai bờ sông Hiền Lương. Hai chính thể với hai đường lối văn nghệ khác nhau nhưng những tài năng của tiếng Việt vẫn có. Nhưng bây giờ rất nhiều các nhà thơ của SG thời đó sống tản mạn khắp thế giới. Chúng tôi in tập thơ này thì sẽ phải liên hệ xin phép tác giả, mà cái khó là không biết địa chỉ mà nhiều khi biết địa chỉ mà tác giả không cho phép thì cũng không dám làm. Vì đây là bản quyền trí tuệ của người ta. Cái điều này cũng có thể làm cho Tuyển tập không phải hoàn hảo. Đây là hoàn cảnh xã hội chính trị của Việt Nam nó quy định chứ không phải ý muốn của một người nào, càng không phải của một ban nào đó quy định.
P.V: Giai đoạn sau năm 1975 cũng là một giai đoạn dài và có nhiều biến đổi xã hội kinh tế đất nước. Đặc biệt sau Đổi mới, kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến, phát triển cũng như những quan niệm và sự giao lưu thế giới. Sự khác biệt thể hiện rất rõ ở lớp nhà thơ trẻ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Hội đồng thơ có thực hiện việc phân chia nhỏ hơn với những tiêu chí xác định khác biệt không thưa ông?
VQP: Thực ra Hội đồng thơ cũng chưa làm cái nhiệm vụ học thuật ấy. Nhưng trong các hội thảo người ta cũng đã đụng đến việc ấy. Ví dụ 1975 là một cái mốc; từ 1975 tạm tính đến 1990 - thời kỳ đất nước thống nhất, vẫn dính vào quan điểm văn chương thời chiến tranh chưa khác biệt gì lắm. Từ năm 1990- với quốc sách đổi mới, về văn hoá tư tưởng nước ta có nhiều biến động. Nhiều tiêu chí về cái Đẹp, Hay, Tốt cũng khác và cái khác nữa là người tiêu thụ, người sáng tác có nhiều đổi khác.Tuy nhiên về mặt Nhà nước chưa có một hội nghị, hội thảo nào xác minh nh÷ng cái gì là thay đổi. Có những nhà thơ bị phê phán từ giai đoạn trước đã được trao giải thưởng văn học Nhà nước rồi nhưng về mặt văn bản vẫn chưa xác định là chấp nhận hay không tác phẩm đó.Vì thế bây giờ có thể có hai ý kiến về một quyển sách mà không có ai làm trọng tài được. Người phê cũng có lí của phê, người khen có lí của người khen. Trong Tuyển này, chúng tôi mạnh dạn lấy tiêu chí nghệ thuật làm đường hướng nhưng không quên đặc thù đó.
Những tác giả trẻ cuối thập kỷ 90 cũng được lựa chọn theo tiêu chí nghệ thuật chung không có gì khác biệt.

P.V: Hội đồng tuyển chọn Tuyển Tập thơ bao gồm những ai? Cách thức làm việc như thế nào để thực hiện một công việc phải xử lí một nguồn tư liệu đồ sộ là thơ của Việt Nam 100 năm, thưa ông?
VQP: Hội đồng tuyển chọn sẽ bao gồm bốn người trong Hội đồng thơ của Hội Nhà Văn, hai nhà phê bình, một ở viện Văn học, một ở trường Đại học Quốc gia. Để làm tuyển tập như này BCH Hội thực hiện ba vòng. Vòng một, Ban biên tập tuyển chọn tác giả, tác phẩm cụ thể; vòng hai là Ban giám định- nghiệm thu, sẽ đưa ra những góp ý, trao đổi cụ thể; vòng ba là việc của Ban chấp hành(BCH) HNV. Như vậy BCH quyết định cuối cùng và là tư cách pháp nhân xuất bản. Trong tuyển chọn sẽ có những trường hợp chúng tôi phải bỏ phiếu kín khi cần thiết.
P.V: Công việc này, theo cá nhân ông đánh giá thì đã chuẩn bị “hòm hòm” đến đâu rồi ạ?
VQP: Nói chung công việc mới được 50%. Vì cũng dự phòng nhiều phương án về quy mô.
P.V: Các nhà thơ được chọn sẽ được giới thiệu như thế nào?
VQP: Chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về tiểu sử, tên tác phẩm, giải thưởng. Đánh giá về tác giả, tác phẩm thì Tuyển này chưa làm được.
P.V: Thưa ông, theo kế hoạch thì Tuyển tập thơ Việt Nam một thế kỷ sẽ ra mắt độc giả vào thời điểm nào?
Vũ Quần Phương: Ý định quý IV năm nay sẽ ra mắt tuyển tập, có thể là một trong các kích cỡ trên. Theo tôi, tôi sẽ thuyết phục BCH thực hiện Tuyển rộng nhất và hẹp nhất trước.
Xin cảm ơn ông và chúc cho Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20 sớm ra mắt bạn đọc!