Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam đã thảo luận và thông qua Luật Quảng cáo, Luật tài nguyên nước sửa đổi
và Luật Biển Việt Nam. Trong đó, Luật Biển Việt Nam đã đạt được sự nhất trí cao
495/496 đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua. Luật Biển Việt Nam được tiến
hành soạn thảo từ năm 1998, gồm 7 chương đề cập đến các nội dung chủ yếu: các
nguyên tắc, chính sách quản lý và bảo vệ biển, phạm vi và quy chế các vùng nội
thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa;
quy chế các đảo, quần đảo VN; các hoạt động trong vùng biển VN; tìm kiếm, cứu nạn,
cứu hộ; bảo vệ tài nguyên môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển
kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển.
Theo luật gia Hoàng Việt, thành
viên ban nghiên cứu Luật Biển của Hội Luật gia Việt Nam, Luật Biển VN
được các nhà chuyên môn đánh giá cao bởi sự vận dụng và nội luật hóa các quy
định của Công ước Luật biển năm 1982 của LHQ vào trong Luật biển VN. Dưới đây là cuộc phỏng vấn giữa
phóng viên Minh Anh với luật gia Hoàng Việt, giảng viên Đại học Luật thành
phố HCM về ý nghĩa và vai trò của Luật biển Việt Nam trong việc xác định chủ
quyền lãnh hải của nước ta cũng như những suy nghĩ của ông trong vấn đề bảo vệ
chủ quyền lãnh hải đất nước ở vai trò nhà nghiên cứu biển Đông.
Phóng viên:
Việt Nam đã tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 từ năm 1994.
Nhưng cho đến nay chúng ta mới chính thức có một văn bản luật về biển. Việc
Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam tại thời điểm này có ý nghĩa gì
nhìn từ góc độ của tiến trình hoạt động lập pháp nói chung?
Luật sư Hoàng Việt: Nói như vậy cũng chưa đúng hoàn
toàn. Chúng ta đã có nhiều văn bản pháp luật về biển từ trước đó rất nhiều, ví
dụ Tuyên bố của Chính phủ về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc
quyền kinh tế năm 1977; hay Tuyên bố của Chính phủ về đường cơ sở để tính chiều
rộng lãnh hải năm 1982; hay các luật hàng hải, luật biên giới quốc gia …v.v. Tuy
nhiên, các văn bản này đã được ban hành từ lâu, thậm chí có văn bản đã ra đời
trước khi Công ước luật biển của LHQ năm 1982 được thông qua, cho nên khi có
nhiều quy định mới của luật biển chúng ta cần được cập nhật đầy đủ.
Chưa kể đến việc hệ thống văn bản
pháp luật về biển của chúng ta chủ yếu là các văn bản dưới luật, điều chỉnh các
lĩnh vực chuyên ngành, vừa phân tán, vừa chồng chéo nhau gây khó khăn cho việc
áp dụng trên thực tiễn về quản lý biển đảo và bảo vệ chủ quyền cũng như lợi ích
quốc gia trên biển.
Mặc dù có các quy định mang tính
tổng quát về biển, nhưng các văn bản pháp luật
về biển của Việt Nam mới chỉ nêu những nguyên tắc chung về xác định phạm vi, chế
độ pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, chưa cụ thể hoá công tác
quản lý nhà nước về biển, nên hiệu lực pháp lý còn thấp. Hơn nữa, Nhà nước ta
chưa có một văn bản luật mang tính tổng thể xác định phạm vi, chế độ pháp lý của
từng vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; quy định các nội dung quản lý nhà
nước về biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc
gia trên biển; vấn đề bảo vệ quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội, giữ gìn và
bảo vệ môi trường biển.
Ngoài ra, các nước xung quanh chúng
ta cũng đã ban hành nhiều đạo luật liên quan tới biển như Malaysia với bản đồ
ranh giới thềm lục địa năm 1979 hay Trung Quốc với nhiều đạo luật liên quan tới
biển, và Philippines với Luật đường cơ sở năm 2009.
Chính vì những lý do đó, Luật biển
Việt Nam ra đời được dư luận chờ đợi đã khá lâu (được bắt đầu soạn thảo từ năm
1998) gần 14 năm đã được thông qua ngày 21/6 năm nay và đã được các nhà chuyên
môn đánh giá cao khi các quy định trong Luật biển Việt Nam đã cho thấy sự vận
dụng và nội luật hóa các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 của LHQ vào
trong Luật biển VN.
P.V:
Xin ông nói rõ hơn về mối quan hệ giữa Chủ quyền biển Việt Nam với Luật biển Việt Nam theo
Luật Biển Quốc tế đã được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc?
Luật biển VN ngay trong điều 1 đã
khẳng định về chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong điều
9, điều 10 của Luật biển VN cũng quy định rõ về nội thủy là vùng nước thuộc chủ
quyền của VN. Điều 11, 12 quy định về lãnh hải; điều 13, 14 quy định về vùng
tiếp giáp lãnh hải; điều 15, 16 quy định về vùng đặc quyền kinh tế; điều 17,18
quy định về thềm lục địa. Đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì VN
có quyền chủ quyền và quyền tài phán. Tất cả những điều khoản này đều tuân thủ
các quy định tương tự trong Công ước Luật biển năm 1982 của LHQ.
P.V: Là một nhà luật gia, ông suy nghĩ như thế nào về vai trò và ý nghĩa của
Luật Biển Việt Nam (được quốc hội thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012) đối với
việc xác định chủ quyền lãnh thổ về biển đảo của nước ta, đặc biệt đối với việc
bất đồng với quốc gia láng giềng.
Luật biển VN ra đời đánh dấu một ý
nghĩa rất lớn. Mặc dù chịu rất nhiều sức ép, nhưng QH cũng đã thông qua với một
tỷ lệ gần như là tuyệt đối. Điều đó cho thấy ý chí và quyết tâm của cả dân tộc
và đất nước trong việc quản lý, phát triển và bảo vệ đối với các vùng biển, đảo
của chúng ta.
P.V: Ngay sau khi Luật biển Việt nam được thông qua, giới truyền thông Trung
Quốc đã có nhiều hành động mang tính lên tiếng phản đối, chỉ trích. Tiến sĩ nhận
xét có đánh giá gì về sự phản ứng này?
Mỗi một quốc gia đều có chủ quyền của
mình. Chủ quyền của quốc gia chính là các hành động đối nội và đối ngoại không
thể bị các quốc gia khác can thiệp. Việc đưa ra Luật biển là một điều bình thường
của tất cả quốc gia ven biển trên thế giới. Muốn quản lý được nó thì nhà nước
phải ban hành luật và chỉ quản lý theo luật mà thôi. Nhưng khi VN thông qua Luật
biển, thì rất nhiều bài báo TQ cũng như phát ngôn của các quan chức TQ cho rằng
đấy là VN đã đẩy tình hình biển Đông vào tình trạng căng thẳng. Có lẽ, chính giới
và giới truyền thông TQ mới chính là bên gây căng thẳng đối với tình hình biển
Đông gần đây, khi họ luôn tìm cách biện minh và thực hiện yêu sách “đường lưỡi
bò”phi lý và bị quốc tế phản đối dữ dội.
P.V:
Một năm trước đây, trong một hội thảo trí thức về Biển Đông, ông đã cảnh báo việc
Trung Quốc sẽ đưa giàn khoan, tàu hải giám khủng vào ngay thềm lục địa của Việt
Nam. Và điều đó đã thành sự thật, mặc dù TQ luôn phát ngôn ôn hòa song song là
hành động tấn công. Theo ông Trung Quốc sẽ còn đi tới đâu để thực hiện chiến lược
đường lưỡi bò của họ?
Khó có thể đoán chính xác các hành
động cụ thể của TQ, vì họ có nhiều những toan tính phức tạp. Tuy nhiên, TQ sẽ
tìm cách để các quốc gia có cảm giác quen dần với việc xuất hiện cũng như các
hành động thực tế gia tăng dần có liều lượng của họ trên biển Đông, và nếu các
quốc gia liên quan không thể có những phản ứng thích hợp thì dần dần, với sức mạnh cùng với những đe dọa của họ, Trung Quốc sẽ
thành công trong việc “hiện thực hóa đường lưỡi bò” của họ.
P.V: Ông
có nhận xét gì về cơ chế quản lí biển theo cơ chế đa ngành, dưới sự chỉ đạo của
Chính phủ như nước ta hiện nay.
Tôi
cho rằng Luật Biển VN có nhiều điểm tiến bộ, nhưng cũng có những hạn chế nhất định.
Mà theo tôi hạn chế lớn nhất của chúng ta vẫn là việc quản lý biển, đảo. Trước
khi có Luật Biển, việc quản lý của chúng ta chồng chéo, nhưng lại không rõ cơ
quan nào chịu trách nhiệm chính. Trong Luật Biển hiện nay, việc quản lý này
cũng vẫn nêu hết sức chung chung, cũng chưa rõ việc quản lý biển đảo sẽ được cụ
thể hóa như thế nào. Chắc có lẽ lại phải chờ văn bản hướng dẫn luật này của
Chính phủ ban hành mới biết rõ thêm được phần nào. Khâu quản lý vẫn là khâu yếu
nhất của chúng ta.
P.V: Để thực thi được Luật này thì theo ông cần có những hướng dẫn cụ thể như thế nào đối với các hoạt động, phát triển kinh tế biến, tuần tra kiểm soát...?
Những hướng dẫn này cần rất nhiều cơ quan tham mưu cho Chính phủ, nhưng quan trọng nhất vẫn phải có một cơ quan chịu trách nhiệm chính cho việc quản lý biển đảo. Hiện nay, trong Luật Biển, QH đã giao trách nhiệm này cho Chính phủ, nhưng trong thực tế, việc phối hợp quản lý của các bộ, ngành trong Chính phủ và địa phương cũng cần phải được quy định rõ để tạo điều kiện tốt cho việc quản lý cũng như giám sát các hoạt động quản lý này.
P.V: Để thực thi được Luật này thì theo ông cần có những hướng dẫn cụ thể như thế nào đối với các hoạt động, phát triển kinh tế biến, tuần tra kiểm soát...?
Những hướng dẫn này cần rất nhiều cơ quan tham mưu cho Chính phủ, nhưng quan trọng nhất vẫn phải có một cơ quan chịu trách nhiệm chính cho việc quản lý biển đảo. Hiện nay, trong Luật Biển, QH đã giao trách nhiệm này cho Chính phủ, nhưng trong thực tế, việc phối hợp quản lý của các bộ, ngành trong Chính phủ và địa phương cũng cần phải được quy định rõ để tạo điều kiện tốt cho việc quản lý cũng như giám sát các hoạt động quản lý này.
P.V: Là
một nhà nghiên cứu Biển Đông, gây Quỹ nghiên cứu Biển Đông, ông có thể chia sẻ
với độc giả những điều trăn trở và suy nghĩ xung quanh Luật Biển và vấn đề chủ quyền lãnh
hải của đất nước ta.
Luật Biển ra đời đánh dấu một mốc mới trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt trong quá trình hướng biển của thế giới. Nhưng việc phát triển các sức mạnh biển của chúng ta hiện nay vẫn còn hết sức hạn chế. Việc bảo vệ chủ quyền là điều hết sức cần thiết, nhưng vấn đề chủ quyền biển của chúng ta đang đứng trước những thách thức vô cùng khó khăn, phức tạp trước một thế giới đầy biến động khó lường. Chính vì vậy, như một con tàu ra khơi gặp biển động với những cơn sóng to, gió lớn, điều cần thiết để giữ vững được thành công phải là có một thuyền trưởng tài ba, với những thủy thủ kiên cường, hết mình vì đất nước. Hy vọng với truyền thống bất khuất của dân tộc, chúng ta sẽ đoàn kết đi trên con thuyền Tổ Quốc để cùng nhau vượt qua những khó khăn, hội nhập và phát triển cùng một thế giới rộng lớn, đưa đất nước đến những vận hội lớn.
Luật Biển ra đời đánh dấu một mốc mới trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt trong quá trình hướng biển của thế giới. Nhưng việc phát triển các sức mạnh biển của chúng ta hiện nay vẫn còn hết sức hạn chế. Việc bảo vệ chủ quyền là điều hết sức cần thiết, nhưng vấn đề chủ quyền biển của chúng ta đang đứng trước những thách thức vô cùng khó khăn, phức tạp trước một thế giới đầy biến động khó lường. Chính vì vậy, như một con tàu ra khơi gặp biển động với những cơn sóng to, gió lớn, điều cần thiết để giữ vững được thành công phải là có một thuyền trưởng tài ba, với những thủy thủ kiên cường, hết mình vì đất nước. Hy vọng với truyền thống bất khuất của dân tộc, chúng ta sẽ đoàn kết đi trên con thuyền Tổ Quốc để cùng nhau vượt qua những khó khăn, hội nhập và phát triển cùng một thế giới rộng lớn, đưa đất nước đến những vận hội lớn.
Xin
trân trọng cảm ơn ông!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét