Mỗi
tác phẩm là một điểm dừng của người hoạ sĩ trong hành trình sáng tạo - con đường
độc đạo chỉ anh ta biết đường đi và tìm ra những lối đi dựng lên không gian và
thế giới mỹ thuật của mình với lí thuyết và thực tiễn cá nhân để chạm tới những
rung cảm. Trần Trọng Vũ là một trong số hoạ sĩ đó. Là một trong số ít những hoạ
sĩ Việt Nam rất thành công ở nước ngoài với những triển lãm cá nhân được giới
báo chí quốc tế quan tâm, đặc biệt hai triển lãm gần đây Blue Memory tại Mỹ và Goodmorning Vietnam tại Pháp, …. Tại
những triển lãm này, với những đề tài quá khứ được hiển hiện trên hơn một trăm
bức tranh trên nilong, giấy, và vải…được sắp xếp thành một không gian tác phẩm
mở mà ở đó người xem và tác phẩm hoà trộn với nhau cùng chuyển động, biến đổi.
Không giới hạn trong những khung tranh, người xem có thể chạm, hoà mình hoặc
tìm đến những góc ngách của tác phẩm khám phá và nhìn những hình thể theo cách
của mình; và mỗi khán giả lại tự tạo nên, lại trở thành một phần của tác phẩm mới
với một giới hạn cảm xúc cá nhân nhất định….Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa hoạ sĩ Trần Trọng Vũ và Minh Anh - phóng viên báo Văn nghệ về lí thuyết và ứng xử với sự thay đổi hình
thức và cách biểu đạt mới trong sáng tạo
mỹ thuật của anh.
Trần Trọng Vũ sinh năm 1964 tại Hà Nội. Anh là con trai út của
cố nhà thơ nổi tiếng Trần Dần. Anh đã tốt nghiệp xuất sắc trường Mỹ Thuật Việt
Nam năm 1987 và năm 1989 giành được học bổng nghiên cứu hội hoạ tại trường Mỹ
thuật Quốc gia Paris, Pháp. Hiện anh sống và làm việc tại Pháp. Tháng 12 năm
2012 anh được trường Mỹ thuật hà Nội mời làm giáo viên thỉnh giảng cho sinh viên
khoá học 3 tuần về Mỹ thuật đương đại.
SÁNG TẠO – SỰ PHỨC HỢP CỦA BIẾT VÀ KHÔNG BIẾT
P.V: Đối với anh sáng tạo là hành trình như thế nào?
Hoạ sĩ Trần Trọng Vũ: Sáng tạo đối với tôi có thể là sự kết hợp
của cái Biết và cái Không Biết: người sáng tạo sử dụng cái đã biết để tìm cái
mà anh ta không biết. Nhưng kết quả không trình bày lại chỉ một mình cái này,
hoặc duy nhất một cái kia, mà đồng thời chứa đựng cả hai.
Đang vẽ trên toan, anh
đột ngột đổi sang vẽ trên nilông trong suốt, điều gì đã dẫn anh đến sự thay đổi
này?
Thực ra sự thay đổi này không quá
đỗi đột ngột. Đấy chỉ là một giai đoạn tất yếu của quá trình làm việc của tôi,
đồng nghĩa với việc khai thác những khả năng có thể của hội họa. Tôi cho rằng hội
họa hoàn toàn có thể phù hợp với những nhu cầu thay đổi trong tôi, khi nhận thức
về nghệ thuật. Việc thực hiện những hình thể trên vải nhựa trong suốt thực chất
nhằm tách hình ảnh ra khỏi nền tranh thông dụng như vải bố, giấy hoặc gỗ… Tất cả
những nền tranh ấy biến mất và sẽ được thay thế bởi không gian phía sau và xung
quanh hình ảnh. Nói cách khác những nền tranh vật chất nhường chỗ cho một nền
tranh không nhìn thấy và mập mờ bởi tính trong suốt của nó. Trên cái không nhìn
thấy ấy tôi thực hiện những hình thể, những dấu hiệu và mầu sắc. Khi treo lơ lửng
trong không gian những hình ảnh hai chiều trở thành ba chiều và những giới hạn
quen thuộc của chúng sẽ bị xóa đi. Có thể nói hình ảnh của tôi được in lên trên
những bối cảnh đã có sẵn và tiếp nối với những cảnh vật này một cách tự nhiên
nhất. Người xem có thể bước từ không gian của họ vào tác phẩm rồi lại từ hư cấu
đi về hiện thực mà không gặp một trở ngại lớn nào. Như vậy với chất liệu vải nhựa
trong suốt hội họa của tôi không còn là mục đích như của phần nhiều họa sỹ, mà
chỉ là một phương tiện biểu đạt.
Sự thay đổi về chất liệu
và hình thức biểu đạt có lẽ sẽ đòi hỏi những kỹ thuật và cách thức làm việc mới.
Như vậy, việc sự khác biệt của người hoạ sĩ khi thực hiện vẽ trên toan và vẽ
trên nilong như thế nào về kỹ thuật, phẩm màu và phối màu?
Sự khác biệt lớn nhất không nằm
trong kỹ thuật. Mặc dù mặt phẳng nhẵn và láng bóng của vải nhựa đòi hỏi một
cách làm việc mới, với những loại mầu mới và những mối quan tâm không quen thuộc.
Nếu những nền tranh thông dụng như vải hoặc giấy là nơi để họa sỹ thực hiện những
tìm tòi và những cuộc phiêu lưu không định trước, thì những hình vẽ của tôi
trên vải nhựa đòi hỏi sự chính xác và những chuẩn bị từ trước. Đây chỉ là một
giai đoạn thuần túy kỹ thuật, không hề hứa hẹn một cảm xúc nào. Nhưng quá trình
đặt những tấm vải nhựa trong suốt này vào không gian mới chính là giai đoạn hứng
thú và khó khăn nhất.
Trở lại với những triển
lãm gần đây của anh, không còn những biển
báo“không chạm vào tác phẩm”, hội hoạ cũng không phải là đích chính. Chủ
đề triển lãm cũng chỉ là những hình thức khi không gian tác phẩm mở với sự tham
gia và biểu hiển cảm xúc khác nhau của người xem, anh có lo ngại rằng mình mất đi
sự kiểm soát tác phẩm và định hướng đối
với công chúng không?
Rõ ràng cách tôi chuẩn bị cho tác
phẩm rất nhiều cửa mở là để thông báo rằng tác phẩm của tôi đang sẵn sàng tiếp
nhận những thay đổi đến từ phía công chúng. Và dĩ nhiên những thay đổi này
không được hướng dẫn từ trước. Hình dạng và khung cảnh bên trong tác phẩm liên
tục thay đổi để lại liên tục trở về trạng thái ban đầu, những thay đổi này có
thể mỗi lần mỗi khác.Tác phẩm của tôi như vậy không thể là một giá trị bất di bất
dịch. Hình ảnh của tôi không chỉ cho một đáp số. Không gian của tôi chứa đựng cả
những hình nhân giả tạo lẫn những con người có thực và sống động. Thật giả do vậy
lẫn lộn, giống hệt như cuộc sống vậy.
Như vậy, công chúng thì
thích thú với trải nghiệm nghệ thuật mới, còn anh giữ những ẩn ý cho mình? Và ở
đây không chỉ dừng ở thị giác mà nghệ thuật của anh đã tác động trực tiếp tới các
giác quan khác của công chúng?
Mời gọi công chúng bước vào tác phẩm cũng giống như lời gợi
ý để họ tiếp nhận tác phẩm theo cách tích cực hơn. Họ phải tìm đường để bước đi
bên trong hình ảnh và có thể có những va chạm của thân thể với hình vẽ. Họ hoàn
toàn được tự do làm những động tác mà họ muốn, gây những tiếng động cố tình hoặc
vô tình, và như thế họ có thể cài vào tác phẩm của tôi những câu chuyện của họ
không mấy liên quan. Và do vậy cuộc tiếp xúc của công chúng với tác phẩm không
chỉ đơn thuần thị giác, mà có thể phải đi cùng với cả những yếu tố tâm lý và
tình cảm nữa… tức là nằm bên ngoài phạm vi thị giác.
Tôi hạnh phúc khi thấy khán giả chấp nhận trò chơi của tác
giả và thấy họ cởi mở và bộc lộ nhu cầu được đối thoại với hình ảnh. Ví dụ
không ít công chúng tìm cách bày đặt thân thể của chính họ vào trong tác phẩm,
hoặc đi trốn sau những hình ảnh, hoặc làm những động tác của thân thể họ để tác
động vào hình ảnh. Cũng không ít khán giả tiến vào bên trong tác phẩm với máy ảnh
với máy quay phim, và đi tìm hình ảnh cho riêng họ. Và trên hết nhiều người
trong số họ bầy tỏ nhu cầu được đối thoại với tác giả, để diễn đạt những băn
khoăn và cảm nhận của họ về cả những gì nằm bên ngoài tác phẩm và bên ngoài phạm
vi thị giác.
Điều đó có làm anh hài
lòng? Cảm xúc của anh như thế nào khi tác phẩm của mình được trưng bày trong những
không gian khác nhau, ở Anh, Mỹ, Việt Nam và khán giả tham gia vào các tác phẩm
cũng rất khác nhau?
Khó có thể nói nếu như tôi hài
lòng, bởi vì luôn luôn có những gợi ý khác sau khi tác phẩm đã được trưng bầy
nơi công cộng. Tôi hầu như có những phản xạ rằng “nếu như…” ánh sáng sẽ như thế
kia chứ không như thế này, hoặc “giả sử…” tôi có thể dựng hẳn một bộ phim một vở
kịch và để cho các nhân vật đi tìm và đuổi bắt nhau bên trong tác phẩm của tôi.
Tất cả những luyến tiếc như thế tôi đã có rất nhiều nhưng tất nhiên không vì mục
đích hoàn thiện tác phẩm. Tôi không đi tìm sự hoàn thiện bởi vì sự hoàn thiện
có thể đồng nghĩa với một dấu chẩm hết. Và rất thường xuyên tôi không muốn xem
lại những gì đã làm, bởi vì những lúc như thế tôi chỉ muốn được dựng lại cùng một
tác phẩm, để làm một dị bản khác, để thực hiện thêm những “nếu như…” ấy. Có thể
nói những không gian khác nhau và những khán giả khác nhau cho cùng một tác phẩm
chính là những đề nghị của ngẫu nhiên, của cái có thể và không thể, của Biết và
Không Biết.
Trở về Việt Nam lần này và giảng dạy cho
sinh viên trường Mỹ thuật Hà Nội về Mỹ thuật đương đại một khoá học thực hành
trong ba tuần, anh đã hướng dẫn họ làm gì và đánh giá về thế hệ hoạ sĩ Việt Nam
tương lai này ra sao?
Có thể nói tôi quay lại trường mỹ thuật Hà Nội, sau 23 năm,
để gặp ở đây một thế hệ hoàn toàn xa lạ. Nhưng chính cầu nối của nghệ thuật đã đưa
tôi lại gần với sinh viên để có thể hiểu được những nhu cầu mới, cùng những khó
khăn và thuận lợi của họ. Chúng tôi làm việc trên một dự án mang tên “Giấy A4”.
Tôi thuộc thế hệ trước, khi ấy không hề có loại giấy A4 này trong đời sống.
Sinh viên của tôi là thế hệ sau, thế hệ của giấy A4, của A còng, của truyền
thông đại chúng, của toàn cầu hóa. Tôi chọn đề tài giấy A4 cho sinh viên bởi vì
họ được sinh ra cùng với giấy A4. Loại giấy này đã tới Việt Nam vào những năm
90 rất muộn màng, nhưng ngay lập tức đã thay thế toàn bộ những giấy 5 hào 2
cùng 3 hào 2, và được người Việt Nam nhiệt tình tiếp nhận. Giấy A4 vì vậy là một
nhân chứng im lặng của lịch sử Việt Nam đương đại.
Tôi đã đề nghị sinh viên sử dụng giấy A4 như một chất liệu
duy nhất để thực hiện đề tài A4 thông qua tác phẩm. Tôi rất muốn hiểu họ suy
nghĩ những gì và như thế nào về thời đại mà họ đang sống. Tôi cũng muốn cùng họ
đưa những suy nghĩ này trở thành thị giác. Và tôi cho rằng sinh viên của tôi cư
xử với quá khứ và kinh nghiệm của họ, với môi trường và xã hội đương thời một
cách chân thành và sáng tạo, mặc dù đây là một ngôn ngữ nghệ thuật không giống
những gì họ đã học ở trường.
Xin trân trọng cảm ơn anh!
Bài đăng báo Văn nghệ số 19- 2013 ra ngày 11 tháng 5 năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét